Những phương pháp xác định độ chặt của nền móng

Thảo luận trong 'Mua bán, rao vặt dịch vụ' bắt đầu bởi pingmaxno1, 22/4/16.

Đã xem: 153

  1. pingmaxno1 Thành Viên Tích Cực

    Các cách xác định độ chặt của nền móng
    Muốn xác định độ chặt của đất nền phải biết được những thông tin và thực hiện căn bản theo tiêu chuẩn thi công và nghiệm thu công trình đất nền.
    [​IMG]
    Tham khảo bài viết về sản phẩm máy đầm đất tại: www.mayxaydungthanglong.vn/may-dam-coc

    Đối với cát thì sử dụng phương pháp dao vòng lấy mẫu tại hiện trường. Thường thì cứ 500m2 lấy 1 mẫu. Sau đó đem về sấy khô để xác định dung trọng khô max tại hiện trường. Lấy kết đấy chia cho dung trọng khô max khi xác định chỉ tiêu cơ lý của nguyên liệu cát tiêu dùng đắp nền thì được độ chặt .

    - Hiệu chỉnh bề dày lớp đất rải để đầm.
    - Xác định ca đầm (hoặc số lượt đầm nén) theo điều kiện thực tiễn đạt độ chặt K theo đòi hỏi kiểu dáng. Đối với các hạng mục thiết kế không quy tắc độ chặt K thì căn cứ vào ca đầm theo định mức xây dựng để xác định dung trọng đất hoặc độ chặt đất ứng với ca đầm đó.
    Đối với vật liệu có chứa sét như đất đồi, subase,v.v.. thì dùng cách rót cát để xác định.
    - Xác định độ ẩm năng suất của đất khi đầm nén.
    Muốn đạt được độ chặt của đất năng suất khi đầm nén, đất đắp phải có độ ẩm hiệu quả. Độ ẩm của đất khi đầm lu chỉ được sai khác tối đa 10% đối với đất dính và 20% đối với đất không dính so với độ ẩm hiệu quả của loại đất đó tìm được trong phòng thí nghiệm. Nếu đất ướt phải xử lí để hạ độ ẩm, nếu đất khô phải thực hiện tưới ẩm để độ ẩm đạt gần độ ẩm hiệu quả. Việc xử lí tưới ẩm phải thực hiện ở ngoài khu vực đắp, đầm nén.
    Tiêu chuẩn chất lượng quan trọng nhất trong công việc đắp đất hạng mục là độ chặt đầm nén (hệ số đầm nén K) hoặc khối lượng thể tích đất khô sau khi đầm nén (dung trọng khô của đất Ƴk) phải được thí điểm để đánh giá chất lượng so sánh với đòi hỏi mẫu mã.
    Một vài đòi hỏi kĩ thuật xây dựng đắp đất

    - Khi rải đất đầm cần thực hiện rải từ mép biên tiến dần vào giữa. Đối với nền đất yếu hoặc bão hòa nước cần rải giữa trước tiến ra mép ngoài biên, khi đắp tới độ cao 3m xây dựng rải đất thay đổi lại từ mép biên tiến vào giữa.
    - Nếu đắp đất trên nền mái dốc có độ dốc từ 1:5 đến 1:3 phải thực hiện đánh cấp, kích thước một cấp rộng x cao. Độ dốc của mỗi bậc phải nghiêng về phía thấp. Nếu chiều cao của mỗi bậc nhỏ hơn 1m thì để mái đứng. Nếu chiều cao lớn hơn 1m thì để mái đến 1:0,5. Nếu nền là đất thiên nhiên lẫn nhiều đá tảng thì không cần xử lí đắp cấp.
    - Nếu nền bằng phẳng hoặc có độ dốc 1:10 đến 1:5 thì phải đánh xờm diện tích.
    - Trước khi đắp đất phải tiến hành nạo vét hết bùn hoặc đất hữu cơ. Chiều dày nạo vét phải căn cứ vào thực tại hiện trường. Đối với công việc vét bùn phải vét đến độ sâu mà đất tại cao độ đó có chỉ số độ sệt tìm được trong phòng thí nghiệm B<0,5 đồng thời phải tiến hành tiêu thoát nước ngầm hoặc nước mặt.
    - Chỉ được rải lớp đất tiếp theo khi khi lớp dưới đạt độ chặt theo yêu cầu kiểu dáng. Không được phép đắp nền những công trình dạng tuyến theo cách đổ tự nhiên đối với đa số các loại đất.
    - Đối với nền đất và nền đất thiên nhiên có độ dốc lớn hơn 1:3 thì công việc xử lí nền phải thực hiện theo chỉ dẫn của kiểu dáng.
     
    Đang tải...
    nam lim xanh

    Bình Luận Bằng Facebook